Kiệu có tên giới bạch, tiểu toán (tỏi nhỏ) tiểu căn toán, dã toán, đại đầu thái tử, hỏa thông... tên khoa học là Allium chinense. G.Don thuộc họ hành tỏi Alliaceae. Kiệu có vị cay – đắng, tính ôn, thông hoạt lợi, thông dương, tán kết, hành khí, giảm đau, an thai, bổ trung, lợi thủy, sinh cơ.
Kiệu muối chua là một trong các loại dưa muối ăn thường ngày của các nước phương Đông như Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản. Ngoài món muối chua còn có thể chế kiệu thành nhiều món ăn khác phối hợp với các loại thực vật hoặc động vật để nấu. Những món ăn có kiệu đều có thể góp phần giúp cơ thể phòng chữa nhiều bệnh, nhất là những người dân ở nơi rừng núi, rét mướt, ẩm thấp, gió mưa.
Trong kinh nghiệm dân gian của nước ngoài, người ta dùng món kiệu chua để hỗ trợ cai nghiện thuốc phiện. Người nghiện khi cai thì ăn kiệu chua vào sáng sớm ngủ dậy chưa ăn gì và trước khi đi ngủ. Để tốt hơn người ta phối hợp với ăn trái hồng khô loại tròn (không phải loại ép dẹp) nấu nước uống hằng ngày và luôn có hồng khô trong túi để mỗi khi nhớ thuốc thì lấy hồng khô ra nhai nhuyễn nuốt nước. Phương pháp này hoàn toàn không độc hại, lại là những món ăn quen thuộc sẵn có, rẻ tiền.
Sau đây là một số công thức dùng kiệu để phòng chữa bệnh:
- Thông dương, tán huyết, tức thở, khí trễ đờm tắc có khi đau ra sau lưng - qua ủy dưa, kiệu bạch tửu (Kim quỹ yếu lược): kiệu 10g, qua ủy 15g, rượu 500ml, 2 thứ làm sạch, qua ủy hấp mềm thái lát, kiệu luộc chín. Cho 2 thứ vào túi lụa ngâm vào rượu. Sau 1 tuần uống được. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 20ml có hòa thêm nước đun sôi để nguội.
- Tức ngực khó thở: Cháo gạo kê nấu với củ kiệu, lấy 15g củ kiệu giã nát, thêm gia vị và nước trộn với 1 bát cháo gạo kê, thêm ít mì chính, dầu vừng để ăn.
- Sản phụ bị kiết lỵ: Củ kiệu xào với bồ dục lợn ăn vài ngày.
- Sưng đau cơ khớp: Củ kiệu giã nát hòa với giấm, đảo đều hâm nóng đắp lên chỗ sưng đau.
- Xích bạch lỵ: Củ kiệu một nắm nấu cháo ăn.
- Bổ khí, điều hòa nội tạng làm béo khỏe chịu rét: Hằng ngày ăn 15-20g kiệu muối với cơm.
- Sang lở, chứng gặp nước thì sưng đỏ ngứa tay chân: Kiệu giã nát, xào nóng đắp vào chỗ ngứa.
- Bỏng lửa, nước sôi nhẹ (không trợt da): Kiệu lột bỏ vỏ ngoài, giã nát, trộn mật phết vào chỗ bị bỏng.
- Bỗng nhiên ngã hôn mê, hoặc ngủ trúng gió bất tỉnh: Kiệu giã vắt nước cốt, nhỏ vào mũi (cần kết hợp các biện pháp khác cho kịp thời).
- Trong hỗ trợ điều trị ung thư (K):
K phổi, K dạ dày: Kiệu 60g, bán hạ 10g, chỉ thực 10g, sinh khương 10g, qua lâu 10g. Sắc uống ngày một thang.
K tuyến vú: Kiệu 15g, qua lâu 1g, hương nhu 10g, mộc dược 10g, cam thảo 10g, sắc hoặc tán bột uống với ít rượu ngày một thang.
K phổi: Kiệu 60g, nước chanh 60ml. Sắc nước uống ngày một thang.
- Kiêng kỵ: Người khí hư không dùng kiệu; người khỏe mạnh cũng không nên lạm dụng ăn nhiều một lúc gây hư tổn khí huyết, nóng gan, đau mắt.
Nguồn suckhoedoisong.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét